Trang chủ » Luật sư & Cộng đồng » Luật sư kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn có thể sẽ không được tòa chấp nhận

Luật sư kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn có thể sẽ không được tòa chấp nhận

Các chuyên gia pháp lý cho rằng, luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (cựu Chủ tịch AIC bỏ trốn) không thuộc chủ thể quyền kháng cáo. Do đó, việc kháng cáo của luật sư sẽ không được chấp nhận.

au phiên xử sơ thẩm vụ án Vi phạm quy định về đấu thầu, Lợi dụng chức vụ quyền hạn, Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, đưa và nhận hối lộ xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, Công ty AIC và các đơn vị có liên quan; đến nay đã có 17 trong số 36 bị cáo kháng cáo Bản án sơ thẩm, gồm cả bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty AIC).

Bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn đang bỏ trốn, bị xét xử vắng mặt với mức án 30 năm tù nhưng luật sư của người này "kháng cáo thay", cho rằng quá trình điều tra chưa đầy đủ, chưa chứng minh được bà Nhàn là chủ mưu trong việc thông thầu.

luat su khang cao thay cho ba nguyen thi thanh nhan co the se khong duoc toa chap nhan
Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn.

Trong vụ án này, có 7 bị cáo khác cũng bỏ trốn đều được Luật sư của bào chữa kháng cáo xin giảm nhẹ hoặc đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm với lý do chứng cứ không đầy đủ, quá trình điều tra có thiếu sót…

Về việc luật sư chỉ định gửi đơn kháng cáo cho các bị cáo đang bỏ trốn, dưới góc độ pháp lý, Ts. Luật sư Đặng Văn Cường – Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) cho biết: Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay thì người bào chữa được quyền kháng cáo thay cho bị cáo đối với trường hợp bị cáo là người dưới 18 tuổi và trường hợp bị cáo là người có nhược điểm về thể chất hoặc về tâm thần. Với người đã đủ 18 tuổi, không có nhược điểm về thể chất hoặc về tâm thần thì phải tự mình kháng cáo nếu không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm của tòa án đã tuyên.

“Về mặt pháp lý thì quyền kháng cáo là một trong những quyền quan trọng, cơ bản của bị cáo trong vụ án hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nếu không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên về tội danh, về mức hình phạt hoặc về các vấn đề có liên quan đến vụ án thì bị cáo có quyền kháng cáo, viện kiểm sát có quyền kháng nghị. Quyền kháng cáo là quyền cơ bản của bị cáo và do bị cáo tự mình thực hiện, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt bị cáo chưa đầy đủ nhận thức, như trường hợp là người chưa đủ 18 tuổi hoặc không thể nhận thức đầy đủ được về hành vi của mình do có nhược điểm về thể chất như khiếm thị, khiếm thính, bị mắc bệnh làm hạn chế khả năng nhận thức... nội dung này quy định tại Điều 331 BLTTHS”, Luật sư Cường cho biết.

Như vậy, theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam thì quyền kháng cáo được quy định rất cụ thể về tại Điều 331 BLTTHS năm 2015. Theo đó bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Trong đó người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc về thể chất mà mình bào chữa. Còn đối với người đã đủ 18 tuổi không có nhược điểm về tâm thần, không có nhược điểm về thể chất thì phải tự mình kháng cáo, người bào chữa không có quyền kháng cáo trong trường hợp này.

Pháp luật Việt Nam cũng không quy định trường hợp bị cáo bỏ trốn, bị truy nã thì người bào chữa được quyền kháng cáo thay. Quyền kháng cáo của người bào chữa được quy định cụ thể tại khoản 2, Điều 331 BLTTHS. Bởi vậy ngoài trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 331 BLTTHS thì người bào chữa không có quyền kháng cáo đối với các trường hợp khác, các bị cáo khác.

Ngoài ra, Điều 73 BLTTHS cũng quy định quyền của người bào chữa trong đó có quyền được gặp bị can, bị cáo, được tham gia hỏi cung, tham gia đối chất, nhận dạng, thu thập các tài liệu chứng cứ để giao nộp cho cơ quan tiến hành tố tụng, được quyền khiếu nại các văn bản quyết định tố tụng... Những điều luật này cũng không quy định người bào chữa được quyền kháng cáo thay cho bị cáo, trừ trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 331 BLTTHS nêu trên.

Theo quan điểm của Luật sư Cường, việc người bào chữa của bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn có đơn kháng cáo thay cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn thì tòa án cấp sơ thẩm sẽ tiếp nhận đơn để xem xét trường hợp này có thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 331 BLTTHS hay không. Theo thông tin từ phía các cơ quan tố tụng thì bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn là người đã thành niên, nếu không có căn cứ cho thấy bà Nhàn có nhược điểm về tâm thần hoặc về thể chất thì tòa án có thể sẽ không chấp nhận đơn kháng cáo này, coi đơn kháng cáo là không hợp lệ, sẽ không thụ lý đối với nội dung kháng cáo này.

Kể từ khi nhận được bản án hoặc biết được thông tin nội dung bản án trên các phương tiện thông tin đại chúng thì trong thời hạn 15 ngày, các bị cáo đang bị truy nã như bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn có quyền tự mình kháng cáo theo quy định pháp luật.

“Còn trường hợp gia đình các bị cáo đang bị truy nã có căn cứ cho thấy bị cáo đang bị nhược điểm về thể chất hoặc về tâm thần khiến bản thân không thể tự mình kháng cáo thì có quyền cung cấp những thông tin này, các tài liệu kèm theo để chứng minh cho người bào chữa để người bào chữa căn cứ vào quy định tại khoản 2, Điều 331 BLTTHS để kháng cáo thay cho bị cáo theo quy định của pháp luật. Còn trường hợp bị cáo hoàn toàn bình thường, do trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật nên đã bỏ trốn và bị truy nã thì sẽ không thể thực hiện được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật. Vấn đề này tòa án cấp sơ thẩm sẽ xem xét tính hợp lý của đơn kháng cáo và sẽ có văn bản trả lời đối với người có đơn và lưu vào hồ sơ vụ án”, Luật sư Cường phát biểu.

Cùng nêu quan điểm về nội dung này, Luật sư Nguyễn Anh Thơm – Trưởng Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội) cho biết: Để đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi cho bị cáo là người bị hạn chế về năng lực hành vi tố tụng, Luật TTHS Việt Nam quy định người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Đây là quyền kháng cáo độc lập của người bào chữa, không phụ thuộc bị cáo có đồng ý hay không. Việc người bào chữa kháng cáo không loại trừ quyền tự bào chữa của bị cáo.

Theo thông tin Luật sư Thơm được biết, cựu chủ tịch AIC Nguyễn Thị Thanh Nhàn được luật sư kháng cáo thay. Luật sư chỉ định của cựu chủ tịch AIC Nguyễn Thị Thanh Nhàn kháng cáo thay thân chủ đang bỏ trốn vì cho rằng không phải là chủ mưu, việc điều tra chưa đầy đủ. Ngày 31/1, TAND Hà Nội đã nhận được đơn kháng cáo bản án sơ thẩm của luật sư đại diện cho bà Nhàn và 16 bị cáo.

Theo quan điểm của Luật sư Thơm, đối chiếu quy định người có quyền kháng cáo tại Điều 331 BLTTHS, luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (cựu Chủ tịch AIC bỏ trốn) bị TAND TP Hà Nội kết án 30 năm tù giam không thuộc chủ thể quyền kháng cáo. Do đó, việc kháng cáo của luật sư sẽ không được chấp nhận.

Điều 331. Người có quyền kháng cáo

1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.

3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.

6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.

nguồn: doisongphapluat.com